GIỚI THIỆU
Tại một cuộc tranh luận mới đây,
được BBC phát hình khắp thế giới, hơn 87% khán thính giả phản đối quan niệm cho
rằng Giáo hội Công giáo là sức mạnh về sự thiện trên thế giới. Mặc dù những
người phản đối Giáo Hội bị chất vấn bởi hai bậc thầy về tu từ học, có một chút
nghi ngờ rằng việc bỏ phiếu kia phản ánh sự biến chuyển về thái độ đối với Kitô
giáo nói chung và đức tin Công giáo nói riêng. Mới đây chúng ta đã được coi là
tử tế và ngây ngô, ngày nay chúng ta lại càng bị coi là ác độc. Cuối cùng, việc
dạy đức tin và bảo vệ đạo đức Kitô giáo càng trở nên khó khăn hơn
nhiều.
Để diễn tả thử thách này từ căn bản,
thiết tưởng chúng ta cần phải tự nhắc nhở mình về mức độ mà đức tin Công giáo là
sức mạnh về sự thiện trên thế giới. Chúa Giêsu nói: “Cứ nhìn quả thì biết cây”
(Mt 12:33), và ngay cả một số người ngoài Giáo Hội cũng đánh giá cao hiệu quả
của Giáo Hội. Chẳng hạn, năm 2007, thương gia vô thần Robert Wilson đã trao 22,5
triệu USD (13,5 triệu Bảng) cho tổ chức giáo dục Công giáo ở New York , và nói rằng:
“Nếu không có Giáo hội Công giáo Rôma thì sẽ không có văn minh Tây
phương”.
Vậy Giáo Hội trao gởi điều gì cho
thế giới?
1. ÁNH SÁNG và VŨ
TRỤ
Tổ chức Opus Maius (năm 1267, tiếng
Latin nghĩa là “Công việc vĩ đại”) của Tu sĩ Roger Bacon (mất năm 1292), Dòng
Phanxicô, đã viết theo yêu cầu của ĐGH Clement IV, đa số nhờ truyền thống quang
học trong thế giới Latin. Cặp kính đầu tiên được phát minh tại Ý vào khoảng năm
1300, cách dùng thấu kính sau đó được phát triển thành kính viễn vọng và kính
hiển vi.
Nhiều người nghĩ rằng Galileo (mất
năm 1642) bị đối xử tệ, họ muốn quên trường hợp riêng của các sự kiện này, hoặc
sự thật là ông đã chết và con gái của ông trở thành nữ tu. Lịch Gregorian
(1582), nay được dùng toàn thế giới, là kết quả của công việc của các nhà thiên
văn Công giáo, là cách phát triển của phép chụp hình thiên văn (astrophysics)
bằng quang phổ của Lm Angelo Secchi (mất năm 1878).
Đáng lưu ý nhất là Big Bang, lý
thuyết quan trọng nhất về vũ trụ học hiện đại, là phát minh của linh mục Công
giáo tên Georges Lemaître (mất năm 1966), một sự kiện lịch sử mà đài BBC chưa
nhắc tới hoặc chưa được công bố trên các sách khoa học. Như vậy có bất công
không?
2. ĐỊA CẦU và THIÊN
NHIÊN
Nền Văn minh Công giáo đã góp phần
đáng kể vào việc nghiên cứu khoa học và vẽ bản đồ địa cầu, sản sinh những nhà
thám hiểm vĩ đại như Marco Polo (mất năm 1324), Hoàng tử Henry Hoa tiêu (mất năm
1460), Bartolomeu Dias (mất năm 1500), Christopher Columbus (mất năm 1506) và
Ferdinand Magellan (mất năm 1521). Ngày xưa người ta bảo thế giới này bằng phẳng
(truyền thuyết đen được tạo ra hồi thế kỷ XIX), thế giới Công giáo đã làm ra bản
đồ khoa học hiện đại đầu tiên: Diogo Ribeiro’s Padrón Real (1527). Lm Nicolas
Steno (mất năm 1686) là người sáng lập địa tầng học (stratigraphy), là cách giải
thích về các lớp đá là một trong các nguyên tắc của khoa địa chất
(geology).
Jean-Baptiste Lamarck (mất năm
1829), một người Công giáo Pháp, đã phát triển lý thuyết đầu tiên về sự tiến
hóa, kể cả khái niệm về sự biến đổi của các loài và phả hệ (genealogical tree).
Tu sĩ Gregor Mendel (mất năm 1884), Dòng Augustinô, đã phát minh ngành di truyền
học (genetics) dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ các đặc tính di truyền của khoảng
29.000 cây đậu.
3. TRIẾT HỌC và THẦN
HỌC
Công giáo coi triết học là tốt tự
bản chất và chịu trách nhiệm trong việc hình thành thần học, dùng lý lẽ để giải
thích điều được phát hiện về phương diện siêu nhiên. Các triết gia Công giáo
lừng danh phải kể tới Thánh Augustinô (mất năm 430), Thánh Thomas Aquinas (mất
năm 1274), Thánh Anselmô (mất năm 1109), Chân phước Duns Scotus (mất năm 1308),
Chân phước Suárez (mất năm 1617), và Chân phước Blaise Pascal (mất năm 1662).
Các triết gia gần đây là Thánh Edith Stein (mất năm 1942), Thánh Elizabeth
Anscombe (mất năm 2001), và Thánh Alasdair MacIntyre. Về căn bản, Thiên Chúa là
Chúa của lý lẽ và tình yêu, người Công giáo bảo vệ tính tối giảm
(irreducibility, không thể giảm bớt) của con người đối với vấn đề này, quy luật
này tạo ra sinh linh có thể là nguyên nhân chính xác của hành động, ý chí tự do,
vai trò của nhân đức trong sự hạnh phúc, điều tốt và xấu, luật tự nhiên và luật
phi mâu thuẫn. Các quy luật này có tầm ảnh hưởng khôn lường về cuộc sống và văn
hóa.
4. GIÁO DỤC và HỆ THỐNG
ĐẠI HỌC
Có thể sự đóng góp cho giáo dục để
nổi bật lên từ nền Văn minh công giáo là sự phát triển hệ thống đại học. Các
trường ĐH Công giáo đầu tiên gồm Bologna (1088), Paris (khoảng 1150), Oxford
(1167), Salerno (1173), Vicenza (1204), Cambridge (1209), Salamanca (1218-1219),
Padua (1222), Naples (1224), và Vercelli (1228). Giữa thế kỷ XV (hơn 70 năm
trước cuộc Cải Cách), đã có hơn 50 trường đại học ở Âu
châu.
Nhiều trường đại học này (như ĐH
Oxford ) vẫn cho
thấy các dấu hiệu thành lập của Công giáo – như những hình tứ giác theo kiểu các
tu viện, lối kiến trúc Gothic và nhiều nhà nguyện. Khởi đầu từ thế kỷ VI, Công
giáo Âu châu cũng phát triển những thứ mà sau đó được gọi là grammar schools
(trường trung học), hồi thế kỷ XV, sản sinh dạng in ấn di động, rất ích lợi cho
ngành giáo dục. Ngày nay, ước tính các trường Công giáo có đến hơn 50 triệu sinh
viên học sinh trên khắp thế giới.
5. NGHỆ THUẬT và KIẾN
TRÚC
Tin Ngôi Hai Nhập Thể, Ngôi Lời mặc
xác phàm và Thánh Lễ có các quy luật nền tảng trong việc đóng góp ngoại hạng của
Công giáo đối với nghệ thuật và kiến trúc. Đó là: các đại giáo đường La Mã cổ
đại, tác phẩm của Giotto (mất năm 1337), người khai sinh trường phái thực tế
trong hội họa khi vẽ 14 Chặng Đàng Thánh Giá kiểu Dòng Phanxicô, giúp gợi hứng
nghệ thuật ba chiều (3D) và kịch nghệ, phát minh cách phối cảnh đường nét một
điểm của Brunelleschi (mất năm 1446), và kiệt tác của thời kỳ Thượng Phục Hưng
(High Renaissance, thập niên 1490, với bích họa “Bữa Tiệc Ly” của danh họa
Leonardo da Vinci). Còn có tác phẩm của Chân phước Fra Angelico (mất năm 1455),
thánh bổn mạng nghệ thuật, các tác phẩm của các danh họa Leonardo da Vinci (mất
năm 1519), Raphael (mất năm 1520), Caravaggio (mất năm 1610, pictured),
Michelangelo (mất năm 1564) và Bernini (mất năm 1680). Nhiều tác phẩm của các
họa sĩ này, như tác phẩm trên trần Nguyện Đường Sistine, được coi là một trong
các kiệt tác nghệ thuật của mọi thời đại. Nền Văn minh Công giáo cũng tành lập
các loại, như lối kiến trúc Byzantine, Romanesque, Gothic, High Renaissance và
Baroque. Tượng Cristo Redentor ở Brazil và Đại giáo đường Sagrada Familia ở
Barcelona chứng
tỏ Đức Tin vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng cho cả nghệ thuật và kiến
trúc.
6. LUẬT PHÁP và LUẬT
HỌC
Việc cải cách của ĐGH Gregory VII
(mất năm 1085) đã thúc đẩy việc hình thành Luật Giáo Hội và các quốc gia Âu
châu. Sau đó là việc áp dụng triết học vào luật pháp, cùng với các kiệt tác của
các tu sĩ như Gratian hồi thế kỷ XII, sản sinh các cơ quan pháp luật hoàn chỉnh
đầu tiên, được coi là ảnh hưởng lẫn nhau để hình thành một tổng thể. Cuộc cách
mạng này cũng dẫn tới việc thành lập các trường luật, khởi đầu ở Bologna (1088),
từ đó sinh ra nghề luật, và các khái niệm như “tính cách đoàn thể” (corporate
personality), nền tảng luật của nhiều cơ quan ngày nay như trường đại học, công
ty và quỹ tín dụng. Các nguyên tác luật như “niềm tin tốt”, sự nhượng quyền, sự
bình đẳng trước pháp luật, luật quốc tế, tòa án xét xử, luật đình quyền giam giữ
(habeas corpus), và trách nhiệm chứng minh sự phạm tội ngoài việc khả nghi cũng
là hệ quả của nền Văn minh và Luật học của Công giáo.
7. NGÔN NGỮ
Trung tâm của tiếng Hy Lạp và Latin
đối với Công giáo đã làm thuận tiện cho việc đọc và viết, vì các mẫu tự rất dễ
học hơn so với các biểu tượng ngôn ngữ, không khó như Trung ngữ (tiếng Trung
quốc). Nhờ Công giáo phổ biến, các mẫu tự Latin được dùng nhiều nhất trong hệ
thống viết trên thế giới. Thế nên có thể gọi La ngữ là mẫu ngữ. Công giáo cũng
phát triển các mẫu tự Armenia , Georgia , Cyrillic và chữ viết tiêu
chuẩn – như tiểu tự Carolingian (chữ viết nhỏ) từ thế kỷ IX tới XII, và tiểu tự
Gothic (từ thế kỷ XII).
Công giáo còn cung cấp khung văn hóa
cho Divina Commedia (hài kịch về Chúa), Cantar de Mio Cid (Ca khúc của Chúa) và
La Chanson de Roland (ca khúc của Roland), các tác phẩm bản xứ rất ảnh hưởng sự
phát triển lẫn nhau của Ý, Pháp và Tây Ban Nha. Thánh ca Công giáo của Cædmon
(thế kỷ VII) là
bản Anh ngữ cổ nhất còn lại hiện nay
– tìm thấy ở The Moore Bede (khoảng năm 737), còn lưu trữ tại Thư viện của ĐH
Cambridge .
Valentin Haüy (mất năm 1822), anh em với Viện phụ Haüy (người phát minh tinh thể
học – crystallography), đã thành lập trường học đầu tiên dành cho người mù. Học
trò nổi tiếng nhất của trường này là Louis Braille (mất năm 1852), người phát
triển hệ thống chữ nổi dành cho người mù phổ biến cả thế giới cho tới nay, gọi
là chữ Braille.
8. ÂM NHẠC
Nền Văn minh Công giáo thực sự sáng
tạo truyền thống âm nhạc Tây phương, rút ra từ âm nhạc Do Thái trong âm nhạc
phụng vụ thời kỳ đầu. Bình ca Grêgôriô phát triển từ thế kỷ VI. Các phương pháp
thu âm bình ca dẫn tới việc phát minh âm nhạc có khuông nhạc, rất lợi ích trong
việc thu âm, và dụng cụ giúp trí nhớ “ut-re-mi” (do-re-mi) của Guido di Arezzo
(mất năm 1003). Từ thế kỷ X, các trường nhà thờ đã phát triển âm nhạc đa âm
(polyphonic music), sau đó mở rộng nhiều tới 40 giọng (Tallis, Spem in Alium) và
thậm chí là 60 giọng (Striggio, Missa Sopra Ecco).
Loại nhạc có nguồn gốc với Văn minh
Công giáo gồm có thánh ca (hymn), ô-ra-tô (oratorio) và ô-pê-ra (opera). Nhà
soạn nhạc Haydn (mất năm 1809) là một người Công giáo đạo đức, định hình việc
phát triển nhạc giao hưởng (symphony) và bộ tứ nhạc cụ dây (string quartet).
Giáo Hội và phụng vụ đã định hình nhiều tác phẩm của các nhà soạn nhạc lừng danh
như Monteverdi (mất năm 1643), Vivaldi (mất năm 1741), Mozart (mất năm 1791,
pictured) và Beethoven (mất năm 1827). Bản Symphony No 8 (Giao hưởng số 8) của
nhà soạn nhạc Mahler (mất năm 1911) được coi như nhạc đề của thánh ca Lễ Ngũ
Tuần (Pentecost), đó là bài “Veni creator spiritus” (Lạy Chúa Thánh Thần, xin
ngự đến).
9. THÂN PHẬN PHỤ
NỮ
Trái ngược với thành kiến chung, các
phụ nữ ngoại hạng và có uy tín đã từng là một trong các tiêu chuẩn của nền văn
minh Công giáo. Đức tin đã tôn vinh nhiều thánh nữ, kể cả các Thánh Tiến sĩ Giáo
Hội mới đây, và nuôi dưỡng nhiều Nữ tu như Thánh Hilda (mất năm 680) và Chân
phước Hildegard von Bingen (mất năm 1179), Mẹ bề trên và học giả. Các phụ nữ
Công giáo tiên phong về chính trị phải kể tới Thánh Empress Matilda (mất năm
1167), Eleanor ở Aquitaine (mất năm 1204) và Nữ hoàng Anh quốc
Mary Tudor (mất năm 1558).
Nền văn minh Công giáo cũng sản sinh
nhiều nữ khoa học gia và giáo sư đầu tiên: Trotula ở Salerno hồi thế kỷ XI,
Dorotea Bucca (mất năm 1436), trưởng khoa y dược tại ĐH Bologna, Elena Lucrezia
Piscopia (mất năm 1684), phụ nữ đầu tiên nhận bằng Tiến sĩ Triết học (1678), và
Maria Agnesi (mất năm 1799), phụ nữ đầu tiên là giáo sư toán học, được ĐGH
Bênêđictô XIV bổ nhiệm hồi đầu năm 1750.
(Trầm Thiên Thu tổng hợp và chuyển
ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét